Bị cắt ngang, John buộc phải từ bỏ việc cân nhắc xem buổi biểu diễn thông linh này có phải là một sự bất cẩn nguy hiểm không. Cậu bé quên hết những hồn ma và cả những linh hồn hung dữ. John lại cất mảnh da thuộc vào túi, và với giọng thôi thúc cậu nói nhỏ với Henry:
– Biến đi… nhanh lên! Tớ sắp cho chúng vào phòng!
Henry vội vàng chỉnh lại bộ râu giả rồi bước vào sau khung màn, trong khi John đứng thẳng người lên, đi về phía cửa tầng hầm và mở nó ra. Hai đứa con trai, bốn đứa con gái đi vào, vây quanh John và hỏi tới tấp.
– John, anh sẽ thuật cho bọn em nghe những câu chuyện hay, phải không?
– Ồ, John, tại sao anh lại đội chiếc khăn Ấn Độ này hả?
– John, Henry đâu rồi ?
Cô bé Judy, sáu tuổi, trẻ đẹp nhất trong bọn mở đôi mắt xanh to tuyên bố:
– John, anh không được làm em sợ đấy nhé. Mẹ em không cho phép đâu!
Đồng thời cô bé siết chặt tay cô bạn Joyce của nó chỉ trạc độ mười một hay mười hai tuổi.
John nhìn cô bé Judy, cậu ngạc nhiên quay sang Joyce:
– Tại sao em lại mang nó theo?
– Phải vậy thôi! – Joyce đáp. – Em phải trông nó mà!
– Nếu cô bé khóc nhè thì em phải đưa nó về nhà! Buổi biểu diễn này không dành cho em bé đâu nhé!
John quay lại bước về phía những tấm màn cũ vây lại. Bọn trẻ vẫn ồn ào đi theo cậu. Khi phát hiện ra căn phòng chỉ do những chiếc chăn cũ và một tấm bạt làm nên, chúng tỏ ra rất thất vọng. Chúng nghĩ sẽ có một cái gì đó đẹp hơn, ngoạn mục hơn nhiều và chúng hỏi tới tấp:
– John, tại sao không có sân khấu?
– John, sân khấu mà anh thường trình diễn ảo thuật đâu mất rồi?
– John, những chiếc chăn này là gì vậy?
– Chúng dùng làm gì vậy?
John không trả lời, cậu vẹt những tấm màn ra một bên. Bọn trẻ, từng đứa một đi vào “phòng”, ngay tức khắc tất cả hạ thấp giọng xuống, chỉ còn nghe những tiếng “Ồ!” “Á!” bị nén lại cùng với vài tiếng cười khe khẽ.
John cẩn thận đóng màn lại và trầm giọng ra lệnh:
– Tất cả hãy ngồi xuống quanh bàn.
Còn bản thân cậu ngồi vào chiếc ghế bành chạm trổ. Cậu ngồi thật thẳng người nhắm mắt lại như chìm vào một thoáng trầm tư sâu lắng.
Những đứa trẻ ngồi quanh bàn có cảm tưởng như có một bóng dáng đi lên dọc vách lều hơi giống vết mực thấm vào giấy. Trên bàn, chỉ có ánh sáng vàng vọt từ chiếc đèn tỏa ra như đang bồng bềnh trong không khí.
– Cậu có sợ không hả, Joyce? – Một cô bé hỏi.
Một cậu bé mà John và Henry thường gọi tên là “Tên Lém Mập”, bắt đầu hát nho nhỏ:
– Marry, người ta chờ em trong cây anh đào. Hãy đến hái trái anh đào. Hãy đến hái trái anh đào!…
Những tiếng cười vang lên. John nhảy dựng lên:
– Bọn các cậu có muốn tham dự một buổi biễu diễn thông linh không? Nếu muốn thì hãy mau im lặng đi! Nếu các cậu nói chuyện, tớ sẽ không làm gì cả!
John nhìn khắp cử tọa với một cái nhìn bốc lửa và nói thêm:
– Tớ không đùa đâu nhé!
Cô bé Judy ngây thơ hỏi:
– Thứ bột vàng vàng này là cái gì vậy?
Và trước khi kịp ngăn nó lại, nó đã đưa tay xáo tung lớp bột mỏng.
John quay về phía chiếc ghế chạm trổ mà cậu vừa rời đi, đưa mắt tìm nơi mà Henry đã hốt hoảng chỉ vào. Rồi bỗng cậu quay sang đối diện với đám khán giả trẻ tuổi.
– Tớ không thấy gì cả! Bọn các cậu có thấy gì không?
Tất cả những con mắt mở to, lắc đầu phủ định. Judy chợt kêu lên một tiếng sợ hãi và giấu mặt vào lòng của Joyce.
Phía sau chiếc ghế bành, bóng hình cao lớn của thuyền trưởng Râu Đen hiện lên và rõ dần ra! Những đường nét trên khuôn mặt của ông ta bị che khuất bởi khói của những mồi thuốc súng được đốt cháy quanh bộ râu của ông, và những bó tảo biển ẩm ướt lòng thòng xuống vai ông. Khi John vừa quay về phía Henry, lão hải tặc mỉm cười và nháy mắt.
Chương 8
Đó là giờ khắc tuyệt vời tiếp theo ngay sau khi mặt trời lặn. Mặt trời mùa xuân tươi sáng suốt ngày bây giờ nhuộm một màu sương hồng ngọc. Ngoài đường những ngọn đèn không sáng hơn những con đom đóm. Những cây cổ thụ bao quanh tòa án Godolphin chĩa những tán lá dày đậm chuyển sang màu xanh đen. Bức tượng ngài Robert Maynard giẫm chân lên những tên hải tặc bị đánh bại được bóng tối khỏa lấp bớt nét sầu sỉ. Những chiếc tàu hàng đang ra cảng Pamlico, đi về phía Ocracoke hoặc ra biển hú còi. Mùi hấp dẫn của bắp rang bơ mà người bán dạo bày ra ở bên vệ đường lan ra ở khắp mọi nơi làm hành khách bộ hành phải rỏ dãi. John và Henry đến gần và đặt tiền lên quầy. Người bán hàng trao gói bắp cho Henry. Hai cậu bé đi đến công viên gần đó và ngồi lên một băng đá. Henry chìa gói bắp cho John. Nó thọc tay vào và lấy ra một nắm bắp rang.
– Cậu biết không John? – Henry nói. – Không phải là một trò đùa đâu. Cậu đã quay về phía ông ta và cũng đã nhìn thấy ông ta đứng ngay sau lưng cậu… to bằng người thật. Và cậu đừng bảo với tớ rằng lúc ấy tớ bị ảo giác nhé!
Cậu bé vừa nhai rất hăng vừa nói thêm:
– Tớ đã báo trước với cậu rằng trò chơi ấy rất nguy hiểm mà…
John uể oải ném vài hạt bắp rang vào miệng.
– Chẳng ai thấy ông ta cả. Còn cậu thì nghĩ rằng cậu đã thấy một cái gì đó. Chỉ có vậy thôi!
John định lấy thêm bắp rang, nhưng có một bàn tay khác đã đưa vào gói bắp trước cậu, một bàn tay khổng lồ đầy lông lá và khá cáu bẩn, một cẳng tay kinh khủng, chung quanh là ống tay áo có gắn nút đồng.
Hoảng sợ hai đứa trẻ nhìn chăm chăm vào bàn tay đang thọc vào túi bắp rang và lấy ra một nắm bắp đưa lên khuôn mặt đầy râu ria. Thuyền trưởng Edward Teach, xưa kia là thuyền trưởng chỉ huy chiếc tàu Reine Anne, thân mình tựa vào lưng ghế, tay ném bắp vào miệng như John đã làm. Bộ râu nổi tiếng của ông có thêm một số mồi thuốc súng. Mái tóc màu than của ông tạo thành một khối nhầy bóng, hai bên có hai bím tóc rủ dài xuống vai. Trên bộ quần áo của ông còn vướng vào nhánh tảo. Và trên mũ ba góc của Râu Đen là chiếc lông đà điểu mà John đã cắm trên chiếc khăn đội đầu của cậu biểu diễn thông linh. Ông ta nhai bắp rang rau ráu. Sau vài bụm bắp ông ta bị nấc, tiếng nấc ồn ào và to như còi tàu. Ông ta đẩy cái mũ ba góc của mình ra sau gáy và lại thò tay lấy bắp. Henry sợ túi bắp rớt xuống nên cố dùng hết sức siết chặt lấy nó.