Henry có vẻ bị thuyết phục.
– Tớ không biết … – Cậu lặp lại.
Chính lúc đó con mèo ướt sũng nước mưa lại xuất hiện một lần nữa trong cầu thang. mắt nó phóng những tia chớp và từ cổ họng của nó phát ra những tiếng kêu hận thù chát chúa. Henry tựa lưng vào bức tường lạnh và ẩm ướt.
– Cút đi! – John hét lên và hốt một nắm đá vụn ném về phía con mèo.
Nhưng nó không cử động, nó chỉ đáp trả bằng cách rít lên những tiếng kêu dữ tợn chỉ riêng của nó. Sau đó nó quay lại trở lên cầu thang và biến mất như lúc ban đầu.
– Tớ mong rằng con mèo này để chúng ta yên. – Henry tuyên bố. – ngục thất này đã quá ảm đạm rồi. Còn riêng tớ, tớ rất ghét mèo!
– Chà, bỏ qua chuyện ấy đi. – John nói. – Nên nói về buổi thông linh gọi hồn của chúng ta thì hơn!
John trở lại phía ánh sáng, có nghĩa là phía ống thông gió vừa thu xếp để không bị ngấm nước mưa đang rơi xuống đọng thành vũng trên mặt đất. Cậu ngẩng đầu lên quan sát bầu trời một lúc cậu bất thần quay lại đối diện với Henry.
– Cậu biết tớ đang nghĩ gì không? Chúng ta phải có một bàn xoay… một cái bàn có thể tự nó bốc lên như bị điều khiển bởi một hồn ma! Và trong việc đó chúng ta sẽ sử dụng mảnh da thuộc này… những câu bùa chú và phần còn lại!
Henry nhìn chăm chú bạn mình với một vẻ sợ hãi càng lúc càng tăng.
– Quỷ thần ơi, cậu điên rồi đấy, John! Cậu sẽ không làm điều đó chứ? Dù sao cũng đừng nghĩ đến tớ sẽ giúp cậu đâu nhé!
Henry chỉ mảnh da thuộc nói tiếp:
– Có thể là một mụ phù thủy thật sự đã viết trên đó những câu bùa chú này, cậu hãy tưởng tượng rằng chúng… có thể thực hiện được! Thì điều gì đã xảy ra nào?
– Henry, chúng ta không thể không thể không sử dụng mảnh da thuộc này. Cậu muốn gì nào? Phá hủy kế hoạch của chúng ta ư? Ồ! Tớ biết những gì viết trên đây làm cho cậu sợ.Nhưng đó chỉ là những chữ rời rạc thôi. Còn về hình vẽ. Một đứa trẻ con cũng có thể vẽ. Hơn nữa, nghe tớ nói đây, tớ nhắc lại cho cậu hiểu rằng bố tớ bảo sự thông linh gọi hồn chỉ là trò đùa. Và bố tớ rất hiểu những gì bố tớ nói. Ông đã thực sự tham dự vào một buổi lễ thông linh với mẹ tớ.
– Mẹ cậu cũng bảo chỉ là một trò đùa thôi sao?
– Ơ… không chính xác là như vậy.
– Còn bố tớ thì dám bảo rằng quán rượu cổ này có ma. Và cũng như bố cậu, bố tớ cũng biết những gì ông ấy nói. Maynard đã có lần thuê bố tớ sửa chữa tòa bộ ống dẫn nước trong gian phòng chính, trong các phòng khác, khắp nơi. Thế mà không có một ống nước nào bền được đến vài tuần.
– Kìa, Henry. Giữa việc sửa ống nước và những hồn ma có gì trùng hợp đâu? Ngay cả khi chấp nhận rằng có những hồn ma ở đây. Cậu không tưởng tượng được rằng chúng ta có những phương tiện khiến họ trở lại sao? Chúng ta chỉ làm một buổi biểu diễn đùa vui cho bạn bè. Chúng sẽ rất vui. Cũng nên nghĩ đến số tiền chúng ta sẽ thu được.
Henry bắt đầu bĩnh tĩnh lại. Cậu chậm chạp nói:
– Dù sao, có thể nó cũng sẽ suôn sẻ…
– Dĩ nhiên là nó sẽ tốt thôi!
John đến một chỗ còn khô ráo gần xà lim nơi mảnh da thuộc được phát hiện, cậu quỳ xuống đối diện với ánh sáng. Trong tư thế đó cậu quay lưng lại lối vào xà lim.
– Đến đây Henry. Tớ sẽ chỉ cho cậu.
John mở mảnh da thuộc, trải nó trên sàn và giữ nó với vài viên đá thô phủ lên và vài mắt xích sắt rỉ sét.
Henry do dự, run từ đầu đến chân, cậu tiến đến với bước chân xiêu vẹo và vụng về đến gần bạn. Cậu nhìn vào mảnh da thuộc và gậm nhấm móng tay cái và rên rỉ:
– John, nếu điều gì sẽ xảy ra cho chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng đáng đời chúng mình lắm đó!
– Đồ hèn!
– Tớ mà hèn à? – Henry cực lực phản đối.
– Được, được rồi. Cậu đừng nhúc nhích nữa được không? Tớ sẽ vẽ lại các hình vẽ kỳ lạ này và đọc những câu thần chú. Như thế cậu sẽ biết mình phải làm gì khi chúng ta thực hiện buổi diễn.
Henry phật ý cúi đầu, nhét ngón tay vào lỗ tai và nghi ngờ nhìn John vẽ những dấu hiệu bằng ngón tay trỏ trong lớp bùn dày đặc màu xanh phủ lên sàn nhà.
– Cậu vẽ đường này quá cong queo. – Henry nói với một giọng đầy uy quyền. Nó phải thẳng hơn nữa.
– Không quan trọng! – John giải thích. – Không cần hoàn toàn giống đâu như tớ đã nói với cậu, tớ chỉ đơn giản muốn chỉ cho cậu cách mình sẽ tiến hành buổi biểu diễn thôi.
– Trong trường hợp này, – Henry thở dài. Nó hài lòng vì đã ghi được điểm. – Ít ra hình vẽ của cậu phải thực hiện thật giống.
Nhưng John đã không quan tâm đến nhận xét của bạn. Cậu bắt đầu đọc lâm râm những bùa chú ở phía dưới mảnh da thuộc.
– Aum… aum… aum… Mananan… Verlum… so… fohat… kaliyoug!… aum… aum, aum… Mananan Verlum fohat kaliyoug!
John dừng lại, nhìn Henry:
– Khi có liên quan đến một người đã khuất từ rất lâu, dường như phải…
Cậu đưa mắt nhìn chữ ký trên mảnh da thuộc khi đã tìm thấy rồi cậu bắt đầu lâm râm khấn vái:
– Bớ quý bà Augusta Stoweccraft, hãy đến với chúng tôi, hãy đến với chúng tôi đây… hãy đến với chúng tôi…! Aum… aum… aum… mananan verlum!…”
Mặt Henry đã hoàn toàn tái nhợt, cậu cắt ngang lời John.
– Đủ rồi! Tại sao cậu lại khấn cái tên này ư? Đó là cái tên như mọi cái tên khác!
Cậu nhắm mắt lại, tiếp tục đọc lầm rầm câu thần chú.
Trong lúc John lặp đi lặp lại : “Aum… aum…” một hiện tượng lạ xảy ra sau lưng cậu và Henry. Môt loại sương mù trắng nhợt nhạt, như một đám mây tựu lại nơi lối vào xà lim, trong khung cửa. Đám sương mù trắng phút chốc chuyển sang một khối đen trong suốt, nhầy nhụa, vặn vẹo, và cuối cùng vẽ thành hình dáng một bà lão còng lưng dơ bẩn. Bà ta có một mái tóc dài xõa xuống vai và quanh khuôn mặt hốc hác không có chút thịt. Bà ta mặc một loại vải mỏng tối và dài, bị rách, ẩm ướt. Phần dưới tấm áo có vẻ như bị lửa đốt cháy sém. Trên cổ bà ta có treo lủng lẳng một mảnh gỗ trên đó có thể đọc được dòng chữ: “Phù thủy – cầu thượng đế thương xót cho linh hồn bà ta”.
Bà ta tựa một tay trên một cây gậy. Với bàn tay kia đưa ra với những móng tay quặp xuống về phía hai đứa trẻ, trong khi bà ta nhích từng bước nhẹ như lướt đến gần chúng.
John bắt đầu chán ngấy, tuy nhiên cậu tiếp tục lặp lại:
“Aum… aum…aumma… verlum…”
Bầu không khí lúc này lạnh như băng. Trong ống thông thông gió, gió rít lên những tiếng rên rỉ, than van. Cánh cửa một xà lim chuyển động nhẹ nhàng, những bản lề kêu lên.
– Thôi đủ rồi, John. – Henry bực dọc ra lệnh. – Tớ đã hiểu rồi. Đừng nhọc công vô ích.