John tỏ vẻ khuất phục giải thích cho bạn nghe rõ ràng:
– Cậu hãy tưởng tượng rằng cậu đã sống ở đây hơn hai thế kỷ. Một ngày nọ, một tên cầm dao rượt đuổi theo cậu trong cầu thang này. Cậu thì biết nấc thang quái quỷ này, còn hắn, hoàn toàn mù tịt về nó. Lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Nó trượt vào lao xuống. Còn cậu, cậu vẫn đứng vững. Cậu chờ nó trong hầm với một cây gậy hay vũ khí nào đó. Cậu thấy chưa? Họ không ngu như cậu nghĩ đâu.
Nói xong, John quay gót, trong khi bạn của cậu vẫn nhìn trân trân vào nấc thang. Một chút ánh sáng trong căn hầm đến từ ống thông gió hẹp được đặt ở giữa trần nhà. Nhờ vào lường ánh sáng này John bắt đầu lục soát khắp nơi.cậu phát hiện những sợi xích sắt nặng trịch có những chiếc vòng xây cố định trong tường. Chúng đã rỉ sét, phủ đầy bụi. Ở đầu mỗi sợi xích có một chiếc vòng sắt nhỏ.
– Nhìn cái này, Henry! – John kêu lên. – Khi tớ nói với giáo sư Allan chúng ta tìm thấy căn hầm này hay đúng hơn là cái ngục tối này, chắc chắn ông ấy sẽ chạy ngay đến.
Cậu bé đá vào các sợi xích.
– Chắc chúng dành cho bọn tù nhân… có lẽ là những người mà hải tặc Râu Đen bắt cóc để tống tiền.
Cậu bé đi đến gần ba cái hốc mà cậu đã nhận ra trong phần xa nhất và tối tăm nhất của phòng giam, vừa đi vừa vấp những mảnh vụn nằm lăn lóc trên mặt đất. Cậu dừng lại, quan sát những cánh cửa dày hé mở che khuất một phần hai con đường. Cánh cửa thứ ba bị rỉ sét và ẩm ướt làm long bản lề đã đổ từ rất lâu rồi.
Hai cánh cửa còn đứng vững có mang những ống khóa lớn hoặc đục thông phần trên khung cửa nhỏ hình chữ nhật có chấn song chắc chắn. Cả hai cánh cửa như được hàn dính vào tường bằng những mạng nhện đầy bụi.
John quay sang Henry. Henry đang quan sát những dây xích và nhất là mặt đất dưới các xích này. Câu vẫn mong tìm thấy một đồng tiền vàng thứ hai.
– Đây nhanh lên! – John nói. – Tớ đã tìm thấy những gian ngục thất.
Trong khi Henry đang đi ngang phòng giam, John đi vào một gian phòng chật hẹp. Ánh sáng của cái ống thông gió yết ớt hắt vào gian phòng nhưng cũng đủ để trông thấy không có gì đáng chú ý, trần của nó làm bằng vòm bằng đá thô. Tuy nhiên trong một góc, vữa đã bong đi, một tảng đá đã rơi ra. Nơi đó có một lỗ toang hoác và đen ngòm. Sau một lúc do dự, John thọc tay vào. Những ngón tay của cậu sờ nắn một vật mà ngay lúc đầu cậu nghĩ rằng đó là một con chuột chết đã khô cứng. Cậu lấy hết can đảm và cố chế ngự sự kinh tởm để không buông và kéo vật này ra ngoài. Thật là nhẹ nhõm khi cậu nhận ra đó là một cuộn giấy đã phủ đầy bụi.
– Henry! – John mừng rỡ thét lên. – Nhìn xem tớ đã tìm ra cái gì đây?
Cậu bé thận trọng mở cuộn giấy cứng như giấy bồi kêu dưới tay cậu. Nhưng Henry đã càu nhàu đi về phía cửa:
– Cậu tìm thấy một mảnh giấy! Trúng lớn rồi! Bây giờ, ta đi nào!
– Ồ, nó có vẻ cũ lắm… Có cả chữ viết lên đó nữa!
Cậu đẩy bạn sang một bên để đi ra trước khỏi xà lim và bước đến chỗ thông gió.
– Thật vậy sao? Có chữ viết hả? – Henry hỏi John và cẩn thận quan sát cuộn giấy.
– Phải, có chữ viết… Nhưng không rõ lắm!
Cậu mân mê mảnh giấy, trở qua trở lại trên tay. Cuối cùng cậu giải thích:
– Theo tớ nó không phải là giấy. Có lẽ là loại mà người ta thường dùng cho các bằng cấp… Một loại da thuộc, tớ nghĩ là vậy đó.
Hai đứa trẻ không nhận ra rằng từ vài phút căn xà lim càng lúc càng trở nên tốt hơn. Rồi thình lình ngay trên ống thông gió, những cây dù bị gió lay động mạnh. Đó là dấu hiệu báo một cơn bão. Môt tia chớp chạy ngang bầu trời. Từ xa tiếng sấm vang dội. Henry nhìn lên và nhận ra ở trên đầu ống thông gió những đám mây xám xịt. Tại sao mình lại để cho John thuyết phục đi đến đây nhỉ? – Cậu tự hỏi. – Tại sao cậu ấy muốn mình làm gì thì mình kuôn luôn phải làm theo nhỉ? Mình chỉ là một thằng ngốc, một thằng ngu si đần độn!
– Tớ đồng ý rồi, John, đó là da thuộc. Bây giờ, chúng ta chuồn thôi. Trời sắp mưa đến nơi rồi.
Đúng vào lúc đó, một con mèo xuất hiện nơi ngưỡng cửa xà lim. Nó giận dữ nhìn hai đứa trẻ, cất tiếng kêu với giọng con người đang cứu, một tiếng kêu như toát ra từ cả thân mình đen. mềm và mướt của nó. Liền ngay lúc đó là một tiếng sấm thứ hai, gần hơn nhiều. Không khí trong gian ngục thất trở nên lạnh. John và Henry đứng chết trận cách con mèo vài mét. Henry chợt rùng mình.
– Hình như là không thật. Cậu có thấy vậy không John?
Con mèo cong mình lên, qua những chiếc răng nanh dài và thẳng thoát ra một tiếng rít kéo dài. Rồi nó nhảy chồm tới như một mũi tên bay qua giữa hai đứa trẻ, thoát ra khỏi gian ngục thất lao về phía cầu thang và biến mất.
– Phù! – Henry thở phào ra. – Tớ không ở lại đây thêm một phút nào nữa.
– Nhìn qua ống thông gió kìa. – John đáp. – Cậu thấy là mưa đã bắt đầu thật mà! Ở đây ít ra chúng mình cũng có nơi trú mưa.
Và cậu lại quan sát mảnh da thuộc. John đưa mảnh da đến gần ống thông gió, nhưng cậu phải vội vàng đưa ngay đi để tránh những giọt mưa chảy dọc theo đường ống nhỏ xuống sàn nhà. Henry thèm thuồng nhìn ngắm cầu thang nơi con mèo vừa thoát ra.
– Lẽ ra chúng ta ít nhất cũng có thể lên đến tầng trệt. – Cậu đề nghị.
– Tại sao? – John hỏi.
Sau đó, vô tình Henry cũng trở thành nạn nhân của sự tò mò. Thật vậy, qua vai bạn, cậu bé cũng bắt đầu quan sát mảnh da thuộc. Cậu nhíu mày nhăn khuôn mặt đầy tàn nhang cực kỳ chú ý hỏi:
– Có phải cậu sắp có thể đọc được những chữ viết trên đó không?
John hít hít, chà mũi với mu bàn tay .
– Tớ nghĩ là tớ có thể.
Mực bị phai đi ở nhiều chỗ và có một màu rất lạ, những chữ viết đôi khi khó đọc được, chen lẫn một vài hình vẽ rất thô khiến người ta nghĩ đến những sơ đồ, những bản đồ hay những tư liệu huyền bí.
– Những chữ này là những lời do quỷ phán rằng …
Henry phì cười:
– John giỡn mặt tớ hả!
– Được tự cậu đọc đi!