Tôi tự hứa hẹn rằng ngay sau khi bình phục, tôi sẽ dành những ngày nghỉ để thám hiểm những bí ẩn dưới mặt đất để xem những người La mã đã vào tới độ sâu bao nhiêu trong các ngọn đồi ở Derbyshire này.
Những người dân quê dị đoan quá chừng! Tuy vậy chàng thanh niên Armitage đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời! Anh ta có nghị lực và có học vấn; tôi đã đặt anh ta cao hơn vị trí xa hội thực sự của anh ta. Và trong khi tôi dừng bước trước hang Blue John, thì anh ta đi qua đồng cỏ đến nơi và nói với tôi.
– Chào bác sỹ, ông không sợ à, ít ra ông cũng biết sợ chứ?
– Sợ à? Và tôi sợ cái gì cơ chứ?
– Sợ nó đó, anh ấy trả lời tôi và lấy ngón tay cái chỉ vào cái vòm đen sì. Sợ con quái vật sống trong hang động Blue John đó!
Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Armitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Armitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Armitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã.
Nhưng đây là một việc kinh dị nhất trong chuyện này. Tôi vẫn đứng yên ở lối vào hang, và tôi đang ngẫm nghĩ tới tất cả những lời giải thích mà các sự kiện do Armitage kể lại có thể chấp nhận được thì bỗng nhiên từ đáy sâu của hang dội lên một tiếng động hết sức kỳ quái. Biết mô tả nó ra sao đây? Trước hết, nó có vẻ như vọng tới từ một nơi rất xa, phát ra ngay trong ruột của quả đất. Hai là, mặc dù sự xa xôi đó, chắc chắn là rất mạnh. Sau hết, đây không phải là tiếng nổ ầm ầm, cũng không phải tiếng khối băng tan tức khắc gây ra một thác nước hay sự sụp lở các tảng đá; đó là một thứ tiếng rên rỉ chói tai, rung đông, ngâm nga, giống như tiếng hí của một con ngựa. Không còn chối cãi được nữa, tôi thấy mình đang đứng trước một điều gì hết sức đặc biệt, và tôi phải đặt một ý nghĩa mới vào những lời nói của Armitage. Tôi đợi trong một nửa giờ trước cửa hang Blue John, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa; do đó tôi quay về trang trại, lòng rất băn khoăn vì sự việc xảy ra. Tôi quyết định sẽ thám hiểm cái hang này khi đã phục hồi sức khỏe! Chắc chắn là sự giải thích của Armitage quá mơ hồ, không đáng bàn luận; nhưng nó cũng không ngăn cản được sự thật là tiếng động kia rất quái dị. Nó vẫn còn vọng trong tai tôi khi tôi viết những dòng này.
20 tháng tư- Trong ba ngày vừa qua, tôi đã thực hiện vài chuyến dạo chơi chung quanh hang Blue John, tôi đã đi vào cả phía bên trong, nhưng không vào quá xa vì cái đèn của tôi không được sáng lắm. Tôi muốn tiến hành một cuộc thăm dò kỹ lưỡng. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào giống như tiếng mà tôi tình cờ nghe thấy hôm nọ, đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng có phải tôi đã là nạn nhân của bệnh ảo giác có lẽ được gây ra bởi buổi nói chuyện với Armitage? Chắc chắn là ý nghĩ của anh ta không đứng vững được! Tuy nhiên tôi phải nhìn nhận rằng các bụi cây một phần nào lấp kín cửa hang có vẻ như đã bị rẽ ra và bị dẫm nát bởi một con vật to lớn. Tôi bắt đầu thích thú. Tôi không hé một lời với các tiểu thư nhà Allerton: các cô gái đã quá dị đoan rồi! Nhưng tôi mua những cây nến và đơn độc một mình mở cuộc điều tra.
Sáng hôm nay, tôi nhận thấy trong số rất nhiều búi lông cừu rải rác trên các bụi cây ở gần cái hang có một búi nhuốm máu. Tất nhiên là lý trí của tôi bảo tôi rằng nếu những con cừu mạo hiểm vào những nơi thế này, chúng rất dễ bị thương tích vì các tảng đá gồ ghề. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những vết máu đỏ thẫm này, tôi run lên và kinh hoàng lùi lại, một luồng hơi hôi thối hình như bốc lên từ những khoảng sâu tăm tối mà tôi cố căng mắt thăm dò một lần nữa. Thật sự có thể có một con vật không có tên, khủng khiếp ẩn nấp trong đó không? Vào lúc hoàn toàn mạnh khỏe, chắc hẳn tôi không thể nào có được loại cảm giác này, nhưng khi ta bị yếu kém về sức khỏe, ta trở nên nhút nhát hơn và óc tưởng tượng gây ra sự quái dị.
Lúc đó, quyết tâm của tôi yếu đi và tôi cảm thấy sẵn sàng từ bỏ việc thám hiểm cái hầm mỏ cũ, và nhìn nhận rằng cái hầm mỏ đó có một điều bí mật. Nhưng chiều hôm nay tôi lấy lại sự hăng hái, những dây thần kinh của tôi đã bình tĩnh lại. Tôi hy vọng là ngày mai tôi sẽ đi sâu hơn vào vấn đề này.
22 tháng tư – Tôi phải dùng cách viết ra giấy để kể lại chính xác tối đa cuộc mạo hiểm ly kỳ của tôi ngày hôm qua. Tôi đã khởi hành vào buổi chiều và đi tới hang Blue John. Tôi xin thú thật rằng những điều linh cảm của tôi lại hiện ra; khi thăm dò những chỗ sâu thẳm của cái hang, đúng ra tôi nên phải có một người bạn đồng hành trong cuộc thám hiểm. Nhưng tôi đã lấy lại sư can đảm, tôi thắp nến lên, vượt qua hàng rào cản của những bụi cây và đi vào bên trong hang.
Trong khoảng chừng hai mươi thước, hang hơi dốc thoai thoải; mặt đất phủ đầy những đá vụn. Tiếp theo là một lối đi dài chạy theo chiều ngang được khoét vào đá kiên cố. Tôi không phải là nhà địa chất học nhưng chắc chắn là cái vòm cong phia bên trong đã được cấu tạo bằng một chất cứng hơn đá vôi; đó đây, ở một vài chỗ, tôi còn nhìn rõ thấy dấu vết của những dụng cụ do những thợ mỏ thời xưa bỏ lại khi họ đào cái hầm này, các dấu vết còn rất rõ ràng và nguyên vẹn như mới có ngày hôm qua, tôi đi chập choạng từng bước một trong cái hành lang cổ xưa như trái đất; ngọn lửa yếu ớt của cây nến chỉ tỏa ra một vòng ánh sáng mập mờ quanh tôi, vào nó còn làm cho bóng tối đen đặc hơn, đáng sợ hơn. Cuối cùng, tôi đi tới một chỗ mà cái hành lang của người La mã đưa tới một cái hang rộng mênh mông do bị xói mòn, với những nhũ đá vôi tích tụ lại trông như cây nến dài. Từ căn phong trung tâm này, tôi nhận ra một cách mơ hồ rằng có nhiều hành lang do các suối ngầm tạo ra đã ăn sâu vào trong lòng trái đất. Tôi lưỡng lự: tôi nên quay trở lại hay cứ liều mạng bước tới trong cái mê cung hiểm nghèo này? Bỗng nhiên tôi cảm thấy dưới chân có một điều gì khác thường.