ÂN XÁ MỘT LẦN…
HAI VẠN SÁU NGÀN NĂM VÀ HAI MƯƠI SÁU NGÀY
Bốn người thong thả đi xuống dãy phố đầu làng. Trời lạnh đã dần dịu. Gió thổi chỉ thoáng nhẹ, đẩy dồn những dải sương mỏng phớt trong thung. Từ lối đi trên này trông xuống, thấy mập mờ những lớp nhà nhỏ ở sau những khu vườn lưa thưa. Bên kia xóm làng, vì đồi núi cản đường, lớp sương mù chập chờn bay trở lại.
Bốn người khiến mấy con chó ngồi lại trong xe rồi cùng tiến lên lối đi có những tấm bia mồ xây hai bên cạnh; lối đi dẫn đến cửa nhà thờ. Nhà thờ dựng trên một khu đất cao như gò, cây mọc chung quanh sầm uất và cách xa làng xóm năm trăm thước.
Trong một miền như ở đây, không hiếm gì những cảnh thi nhân đã tả. Người ta thường thấy “những nhà thờ cô tịch, bé nhỏ ở nơi bờ cát, nguyện cầu cùng đấng đã dựng nên các núi non”. Kiến trúc không rõ theo một lối nào, cửa phần nhiều nhà thờ xây kiểu gô-tích, lòng nhà thờ theo kiểu cổ điển bản xứ và những hàng lang trở lại theo kiểu normand.
Nhà thờ Dannow này lại ra vẻ một cái nhà kho nghèo nàn, duy chỉ có những ngôi lăng mộ nguy nga của dòng họ Hammond làm cho có bề thế. Một vùng bóng tối sâu thẳm lạnh lùng. Swanhild thắp đèn lên soi, còn Luna lặng lẽ và trang nghiêm thì khởi công xem xét. Dải ánh sáng mỏng manh ở chiếc đèn chiếu qua một lượt những tên khắc trên đá lấp lánh rồi lại lần lượt biến ngaỵ Và lần lượt hiện lên tượng người Thập tự binh trong khung ổ(#1), rồi những hình tạc ở dưới đất, và trên tường – những tường đá họa chân dung Warlock và bà vợ – hiện lên giữa sự quang vinh lộng lẫy những nét chạm trổ uốn éo cùng những biểu hiện thếp vàng. Rồi đến cái bàn thờ nhỏ trong bóng tối hiện ra với bản chép lai bức tranh dầu của James Clarek cùng một tấm bia ghi nhiều tên họ Ở giữa những sự vinh hạnh của những hình lá kết chung quanh.
Luna không nói qua một tiếng, bao nhiêu chăm chú dồn cả trên đôi mắt mở tọ Cô đi dạo một lượt khắp lòng nhà thờ, dừng gót trước bàn thờ rồi lại đến đứng trước bức hình tạc nổi mà Swanhild đã nói trước. Cô tỉ mỉ đưa ngón tay sờ theo các nét tròn rũa ở mình cái vật nằm dưới chân người Thập tự binh.
Cô thấp tiếng xuống nói:
– Kỳ dị lắm!
Nói rồi Luna lại chăm chú xem xét. Cô trầm ngâm trước tấm biển đồng nhỏ gắn vào mặt tường: trên biển khắc tên Reginald Hammond, mệnh chung năm 1918.
Đoạn cô ta quay lại nói:
– Ta thử đến xem bức chân dung cụ ẩn tu xem có biết thêm được gì về bốn chân của con vật kỳ dị này không, đi!
Bức chân dung khắc trổ trên một phiến đá đóng kháp liền mặt đất. Gođard kéo tấm thảm che trên mặt phiến đồng lên thì thấy lộ ra một người mặc y phục thầy tu; dưới chân người ấy là một con vật dị kỳ không thể mô tả được. Bên dưới đó là một câu giải thích không còn đọc rõ được những gì. Trông con vật thì thì cái đầu gần giống như đầu chó, mõm dãi và hai tai vểnh. Mình nó thon ở phần lưng phía bụng, cái đuôi uốn vòng khúc rắn có một túm lông ở tận cuối như thường thấy ở đuôi những ma quỷ vẽ trong các bức tranh.
Luna quỳ xệp xuống, lấy ngón tay lần theo các đường nét khác. Cô bảo những người đi theo:
– Con vật này xem ra như có bốn chân. Xưa kia, những tài liệu về vạn vật thường thiếu sót, không được rõ rệt, các họa sĩ ngày trước chỉ hay lấy kiểu giống chó dùng vào tác phẩm mình. Song, ở đây, cái đuôi thực lạ lùng, mà những cái chân kia, thì… Hừm! Thực là khó hiểu quá!
Oliver và Swanhild theo cô đến xem chỗ mộ đá táng Warlock. Ở đấy, sừng sững hai bức tượng vị ẩn tu và người vợ, mặt mày nghiêm nghị, y phục cứng thẳng, bàn tay chắp lại trong dáng cầu nguyện đã từ bốn thế kỷ naỵ Swanhild bảo Luna để ý nhìn cái hình một đứa bé nằm trên một cái sọ người chết.
Oliver giảng:
– Theo lời người vùng này, đứa bé là một trong những kẻ bị thí mạng cho quỷ Satan. Nhưng chính thực ra thì đây là một đứa con của Warlock. Kìa, cô đứng dậy đi! (Chàng thấy Luna đang vừa quỳ vừa lê gối để xem kỹ những phiến đá lát dưới phần mồ). Cô đừng quỳ như thế nữa!
Cô ngoảnh lên, mỉm cười:
– Tôi thử tìm xem có một đường nào để trong mồ này được không.
– Trời ơi! Chẳng lẽ cô lại cho rằng ban đêm Magnus ở trong này ra ngoài được sao?
– Tôi chỉ không coi thường các điều trong những truyện truyền lại.
Cô gấp gối ngồi tì trên gót rồi mở túi lấy cái cành cây ra. Nhưng không thấy nó động đậy. Cô đứng lên nói:
– Cụ ẩn tu lúc này xem chừng được yên nghỉ.
Swanhild chỉ những hàng chữ trên tấm bia mồ bảo cô:
– Thế kia thì cô có dám chắc ông cụ được yên ổn thực không?
Tấm bia ghi tên Warlock và tên vợ cùng với ngày tháng hai người mệnh chung: ngày 8 và ngày 10 tháng hai năm 1526. Và phía dưới những hàng chữ này:
Ân xá đọc năm kinh Pater (Lạy cha) và năm kinh Ave (Kinh mừng) và một kinh Credo (Tin kính) là hai vạn sáu ngàn năm và hai mươi sáu ngày.
Swanhild cắt nghĩa thêm:
– Hai vạn sáu ngàn năm với hai mươi sáu ngày lửa luyện tội(#2)ân xá cho kẻ nào đọc những kinh này để chỉ cho linh hồn ông cụ bà cụ.
Luna gật đầu:
– Vâng, quả có nhiều ý tứ trong lời đó thực.
Oliver hỏi:
– Nhưng cô có tin rằng cách ấy có được như nguyện gì không?
– Một lòng tin tưởng chí thành bao giờ cũng được như nguyện, nhưng tôi không tin ở hiệu lực cái lời hứa tiền trao cháo múc. Dẫu sao, những lời ghi trên bia này cũng kỳ dị, bởi lẽ rằng hồi ấy, một ân xá lâu dài đến thế là một việc bất thường. Chẳng biết ông cụ Warlock đã phạm một tội ác nào đến nỗi phải dụ người sau bằng một câu hứahẹn tốt đẹp đến thế để mong chuộc tội.
Swanhild nhắc: